<<< http://perso.wanadoo.fr/dang.tk/ >>> <<< http://nguyendu.com.free.fr/ (mirror) >>>
阿房宮賦

六王畢、 四海一、 蜀山兀、 阿房出。

覆壓三百餘里、 隔離天日。 驪山北構而西折、 直走咸陽。 二川溶溶、 流入宮牆。 五步一樓、 十步一閣、 廊腰縵迴、 簷牙高啄。 各抱地勢、 鈎心鬬角。 盤盤焉、 囷囷焉、 蜂房水渦、 矗不知其幾千萬落。

長橋臥波、 未雲何龍? 複道行空、 不霽何虹? 高低冥迷、 不知西東。 歌臺暖響、 春光融融。 舞殿冷袖、 風雨淒淒。 一日之內、 一宮之間、 而氣候不齊。 妃嬪媵嬙、 王子皇孫、 辭樓下殿輦來於秦。 朝歌夜絃、 爲秦宮人。

明星熒熒、 開妝鏡也、 綠雲擾擾、 梳曉鬟也、 渭流漲膩、 棄脂水也、 煙斜霧橫、 焚椒蘭也、 雷霆乍驚、 宮車過也、 轆轆遠聽、 杳不知其所之也。 一肌一容、 盡態極姸、 縵立遠視而望幸焉、 有不得見者三六年。

燕趙收藏、 韓魏之經營、 齊楚之精英、 幾世幾年、 取掠其人、 倚疊如山。 一旦不能有、 輸來其間。 鼎鐺玉石、 金塊珠礫、 棄擲邐迤。 秦人視之、 亦不甚惜。

嗟乎! 一人之心、 千萬人之心也。 秦愛紛奢、 人亦念其家。 奈何取之盡鍿銖、 用之如泥沙! 使負棟之柱、 多於南畝之農夫、 架梁之椽、 多於機上之工女、 釘頭磷磷、 多在庾之粟粒、 瓦縫參差、 多於周身之帛縷、 直欄橫檻、 多於九土之城郭、 管絃嘔啞、 多於市人之言語。 使天下之人不敢言而敢怒、 獨夫之心、 日益驕固。 戍卒叫、 函谷舉、 楚人一炬、 可憐焦土!

嗚呼! 滅六國者、 六國也、 非秦也、 族秦者、 秦也、 非天下也。 嗟乎! 使六國各愛其人、 則足以拒秦、 秦復愛六國之人、 則遞三世可至萬世而爲君、 誰得而族滅也。

秦人不暇自哀、 而後人哀之、 後人哀之而不鑑之、 亦使後人復哀後人也!

杜牧

Phiên âm: A Phòng cung phú


Lục vương tất, tứ hải nhất, thục sơn ngột, A Phòng xuất.

Phú áp tam bách dư lí, cách li thiên nhật. Li sơn bắc cấu nhi tây chiết, trực tẩu Hàm Dương. Nhị xuyên dung dung, lưu nhập cung tường. Ngũ bộ nhất lâu, thập bộ nhất các, lang yêu mạn hồi, thiềm nha cao trác. Các bão địa thế, câu tâm đấu giác. Bàn bàn yên, khuân khuân yên, phong phòng thủy oa, súc bất tri kì kỉ thiên vạn lạc.

Trường kiều ngọa ba, vị vân hà long? Phức đạo hành không, bất tễ hà hồng? Cao đê minh mê, bất tri tây đông. Ca đài noãn hưởng, xuân quang dung dung. Vũ điện lãnh tụ, phong vũ thê thê. Nhất nhật chi nội, nhất cung chi gian, nhi khí hậu bất tề. Phi tần dắng tường, vương tử hoàng tôn, từ lâu hạ điện liễn lai ư Tần. Triêu ca dạ huyền, vi Tần cung nhân.

Minh tinh huỳnh huỳnh, khai trang kính dã, lục vân nhiễu nhiễu, sơ hiểu hoàn dã, Vị lưu trướng nhị, khí chi thủy dã, yên tà vụ hoành, phần tiêu lan dã, lôi đình sạ kinh, cung xa quá dã, lộc lộc viễn thính, yểu bất tri kì sở chi dã. Nhất cơ nhất dung, tận thái cực nghiên, mạn lập viễn thị nhi vọng hạnh yên, hữu bất đắc kiến giả tam lục niên.

Yên Triệu thu tàng, Hàn Ngụy chi kinh doanh, Tề Sở chi tinh anh, kỉ thế kỉ niên, thủ lược kì nhân, ỷ điệp như sơn. Nhất đán bất năng hữu, thâu lai kì gian. Đỉnh sanh ngọc thạch, kim khối châu lịch, khí trịch lệ dĩ. Tần nhân thị chi, diệc bất thậm tích.

Ta hồ! Nhất nhân chi tâm, thiên vạn nhân chi tâm dã. Tần ái phân xa, nhân diệc niệm kì gia. Nại hà thủ chi tận truy thù, dụng chi như nê sa! Sử phụ đống chi trụ, đa ư nam mẫu chi nông phu, giá lương chi chuyên, đa ư cơ thượng chi công nữ, đinh đầu lân lân, đa tại dữu chi túc lạp, ngõa phùng tham soa, đa ư chu thân chi bạch lũ, trực lan hoành hạm, đa ư cửu thổ chi thành quách, quản huyền ẩu á, đa ư thị nhân chi ngôn ngữ. Sử thiên hạ chi nhân bất cảm ngôn nhi cảm nộ, độc phu chi tâm, nhật ích kiêu cố. Thú tốt khiếu, Hàm Cốc cử, Sở nhân nhất cự, khả liên tiêu thổ!

Ô hô! Diệt lục quốc giả, lục quốc dã, phi Tần dã, tộc Tần giả, Tần dã, phi thiên hạ dã. Ta hồ! Sử lục quốc các ái kì nhân, tắc túc dĩ cự Tần, Tần phục ái lục quốc chi nhân, tắc đệ tam thế khả chí vạn thế nhi vi quân, thùy đắc nhi tộc diệt dã?

Tần nhân bất hạ tự ai, nhi hậu nhân ai chi, hậu nhân ai chi nhi bất giám chi, diệc sử hậu nhân phục ai hậu nhân dã!

Đỗ Mục


Dịch: Bài phú "Cung A Phòng"


Sáu vua bị diệt, bốn bể thống nhất, núi xứ Thục trọi, cung A Phòng xuất (1).

Cao muốn đụng trời xanh, ba trăm dặm che lấp. Xây từ đời Li Sơn ở phương Bắc, vòng qua Tây, chạy thẳng xuống Hàm Dương (2). Hai con sông mông mênh chảy vào tới chân tường (3). Năm bước lại một lầu, mười bước lại một gác; hành lang uốn cong như tấm lụa, mái nhà cao nhọn như mỏ chim; đều ôm địa thế, góc thì đâu vào nhau, giữa như cái móc. Quanh co chằng chịt như tổ ong, như xoáy nước, không biết là mấy nghìn nóc.

Cầu dài vắt ngang sông: chưa có mây sao có rồng? Đường đôi bắc trên không: không phải mưa tạnh, sao có cầu vồng (4) ? Cao thấp hỗn loạn, nào biết tây đông. Xuân quang ấm áp, tiếng ca vui vầy; gió mưa lạnh lẽo, tay áo hết bay (5). Cùng trong một cung, cùng trong một ngày, khí hậu khác thay! Phi tần thị nữ (6), vương tử hoàng tôn, từ lầu xuống điện, ngồi xe tới Tần, sáng ca tối đàn, và thành cung nhân (7).

Kìa sao lấp lánh: mở gương đấy mà; mây xanh (8) rối loạn: mớ tóc xõa ra; sông Vị đầy mà; đốt tiêu đốt lan: đám khói tà tà; sấm động kinh hồn: tiếng xe chạy qua; nào biết đi đâu, ầm ầm ở xa. Da thịt dong mạo, làm đỏm làm duyên, đứng chờ xa xa, mong được vua nhìn. Có kẻ trông ngóng ba mươi sáu năm liền.

Yên, Triệu gom góp, Hàn, Ngụy kinh doanh, Tề, Sở tinh anh, mấy đời mấy năm, của người cướp lấy chất cao thành non, khi chẳng giữ nổi (9), thu lại nơi đây. Vàng, đỉnh coi tựa đất, lu; châu, ngọc rẻ hơn đá, sỏi; liệng phí vung tay, chẳng ai nhìn nhõi (10).

Than ôi! Lòng ai cũng vậy, nghìn vạn người như một. Người Tần thích xa hoa, thì người ta cũng nghĩ tới nhà (11). Sao lấy thì thu nhặt từng chút mà dùng thì coi rẻ như cát bùn! Khiến cho cột đỡ rui nhiều hơn nông phu ngoài đồng; kèo đỡ nóc nhà nhiều hơn chức nữ trên khung; Cho đầu đinh lấp lánh nhiều hơn hột lúa trong kho; phiến ngói so le nhiều hơn quần áo ngoài phố; lan can bực cửa nhiều hơn thành quách cửu châu (12); sáo đờn ọ ẹ nhiều hơn tiếng nói trong chợ; làm cho người trong thiên hạ không dám nói mà dám phẫn nộ; lòng kẻ thất phu mỗi ngày càng thêm kiêu căng ngoan cố (13). Lính thú (14) hò hét, Hàm Cốc nổi tung (15), mồi Sở một bùng, thương thay, tro tàn trơ đó (16)!

Than ôi! Kẻ diệt lục quốc không phải Tần mà là lục quốc. Kẻ diệt Tần chính là Tần chính là Tần, không phải là thiên hạ. Buồn thay! Người lục quốc nếu biết yêu nhau thì đủ sức để chống cự với Tần, nếu Tần lại yêu người lục quốc thì truyền từ ba đời (17) đến vạn đời, làm chủ thiên hạ, ai diệt Tần được?

Người Tần không kịp tự thương cho mình mà đời người sau than thở cho họ, người dời sau than thở cho họ mà không biết lấy đó làm gương, khiến người đời sau nữa lại phải than thở cho người đời sau nữa.


Nguyễn Hiến Lê

dịch (Cổ văn Trung quốc, Xuân Thu xuất bản, USA).

Chú thích:

(1) Sáu vua: Tức vua lục quốc: Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở đời Chiến Quốc. Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước rồi, đốn cây trên các núi trong đất Thục để dựng cung A Phòng tại Hàm Dương, cung có thể chứa được vạn người, cung nữ đông tới ba bốn ngàn.

(2) Li Sơn, Hàm Dương: Li Sơn ở Thiểm Tây, Hàm Dương nay là huyện Tràng An, cũng ở Thiểm Tây.

(3) Hai sông: Tức Vị Xuyên và Phàn Xuyên.

(4) Cầu vồng: Chiếc cầu dài này bắc từ cung A Phòng, ngang sông Vị, tới Hàm Dương. Con đường đôi này bằng gỗ đưa từ cung tới chân núi Nam Sơn. Tác giả so sánh cầu với hình con rồng và đường đôi với cầu vồng, vì màu sắc rực rỡ.

(5) Xuân quang: Ý nói: khi ca hát vui vầy thì trong cung ấm áp, khi hết múa hát thì không khí lạnh lẽo.

(6) Phi tần thị nữ: Nguyên văn: dắng 媵, tường 嬙: Dắng là em gái hay cháu gái một công chúa theo công chúa về nhà chồng và làm vợ lẽ của chồng công chúa. Tường là một chức quan đàn bà.

(7) Cung nhân: Phi tần các nước khác rời nước mình, lại A Phòng làm cung nhân nhà Tần.

(8) Đầy mà: Nước triều lên cực độ gọi là đầy mà. Câu này so sánh gương với sao, tóc với mây, dầu sáp nhiều như nước sông Vị.

(9) Chẳng giữ nổi: Những vật báu trong cung A Phòng là những vật báu mà sáu nước trước kia đã gom góp được, rồi không giữ nổi, để Tần thu cả đem lại về đây.

(10) Chẳng ai nhìn nhõi: Nguyên văn: liệng bỏ liền liền, người Tần trông thấy cũng chẳng tiếc.

(11) Người Tần thích xa hoa: Ý nói: Tần cướp của người để phung phí, sao không nghĩ những kẻ bị cướp kia rất xót xa vì mất con, mất của.

(12) Cửu châu: Thời đó Trung Quốc chia làm chín châu.

(13) Kiêu căng ngoan cố: Trỏ Tần Thủy Hoàng.

(14) Lính thú: Trỏ Trần Thiệp, người đầu tiên dấy binh đánh Tần.

(15) Hàm Cốc: Lưu Bang cử binh ở Hàm Cốc để đánh Tần.

(16) Đuốc Sở: Hạng Võ, người nước Sở, diệt được Tần, đốt cung A Phòng.

(17) Tần: Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc rồi, tự đặt hiệu là Thủy Hoàng đế (hoàng đế đầu tiên), cho con lấy hiệu là Nhị thế Hoàng đế (hoàng đế đời thứ nhì), rồi Tam thế Hoàng đế (hoàng đế đời thứ ba) … cho đến vạn thế. Nhưng mới đến tam thế đã bị diệt, trước sau chỉ được có 15 năm (221-206).

(8) Hỏi thăm đường: Nguyên văn: "vấn tân" nghĩa là hỏi bến đò.

TOP