<<< http://perso.wanadoo.fr/dang.tk/ >>> <<< http://nguyendu.com.free.fr/ (mirror) >>>
001 鳳凰路上早行

征夫懷往路
夜色尙蒙蒙
月落猿聲外
人行虎跡中
力衰常畏露
髮短不禁風
野宿逢樵者
相憐不在同

Phiên âm: Phượng Hoàng (1) lộ thượng tảo hành

Chinh phu hoài vãng lộ (2)
Dạ sắc thượng mông mông
Nguyệt lạc viên thanh ngoại
Nhân hành hổ tích trung
Lực suy thường úy lộ (3)
Phát đoản bất cấm phong
Dã túc phùng tiều giả
Tương liên bất tại đồng (4)

Nguyễn Du 阮攸

Dịch nghĩa: Sáng sớm đi trên đường núi Phượng Hoàng

Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăn lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau

Dịch thơ: Trên đường Phượng Hoàng

Nghĩ đường trước mặt mà lo,
Trời mai còn vướng lờ mờ bóng đêm.
Ngoài nơi vượn hú trăng chìm,
Trong nơi cọp dạo im lìm người đi.
Sương đầm những ngại lực suy,
Mái đầu tóc ngắn sợ gì gió tung.
Quán quê gặp gỡ tiều ông,
Thương nhau há tại cảnh đồng mà thương.

Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, An Tiêm tái bản, France, 1995)



Chú thích:


(1) Phượng Hoàng: Từ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng. Năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du đương làm Tri phủ Thường Tín thì bị bệnh, xin từ chức. Về quê nghỉ được hơn một tháng lại có chỉ gọi vào Kinh. Bài này làm trên đường lai kinh và mở đầu cho tập Nam Trung Tạp Ngâm.

(2) Vãng lộ: Con đường sắp đi qua.

(3) Úy lộ: Chữ 露 "lộ" ở đây là sương móc. Có chỗ chép chữ 路 "lộ" là đường. Chép như thế không đúng, vì ở câu đầu đã nói đến 往路 "vãng lộ" rồi.

(4) Bất tại đồng: Thường thường thì "đồng bệnh tương liên". Nhưng đối với trường hợp này thì không đồng cảnh ngộ, không đồng tâm sự, nhưng vẫn thương nhau.