<<< http://perso.wanadoo.fr/dang.tk/ >>> <<< http://nguyendu.com.free.fr/ (mirror) >>>
064 春宵旅次

蕭蕭蓬鬢老風塵
暗裡偏驚物候新
池草未闌千里夢
庭梅已換一年春
英雄心事荒馳騁
名利營場累笑顰
人事蕭條春自好
團城城下一沾巾

Phiên âm: Xuân tiêu lữ thứ (1)

Tiêu tiêu bồng mấn (2) lão phong trần
Ám lí thiên kinh vật hậu tân
Trì thảo (3) vị lan thiên lí mộng
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân (4)
Anh hùng tâm sự hoang trì sính (5)
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần (6)
Nhân sự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn thành (7) thành hạ nhất triêm cân

Nguyễn Du 阮攸

Dịch nghĩa: Đêm xuân quán khách

Bời bời mái tóc bồng già cùng gió bụi
Trong thầm lặng riêng sợ khi nhìn thấy cảnh vật đổi mới
Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng "cỏ bờ ao"
Cây mai ở trước sân đã đổi một năm xuân
Tâm sự anh hùng đã nguội, không còn nghĩ đến chuyện dong ruổi
Trên trường danh lợi những kẻ lụy về vẻ khóc cười
Người buồn bã xuân riêng đẹp
Đứng dưới chân thành Đoàn, một mình, lệ thấm khăn

Dịch thơ: Đêm xuân quán khách

Phất phơ mái tóc rối phong trần
Lặng lẽ thầm kinh vật biến tân
Chằm cỏ chưa tan ngàn dặm mộng
Thềm mai đã đổi một năm xuân
Anh hùng dạ lấp đường dong ruổi
Danh lợi chân ê bước nhọc nhằn
Người dẫu đìu hiu xuân vẫn đẹp
Thành Đoàn thơ thẩn lệ dầm khăn

Quách Tấn dịch (Tố Như thi, An Tiên tái bản, France, 1995)



Chú thích:


(1) Lữ thứ: Tác giả làm bài này khi lên Lạng Sơn để đón sứ thần nhà Thanh năm Giáp Tí (1805).

(2) Bồng mấn: Mái tóc rối bời như cỏ bồng.

(3) Trì thảo: Chữ lấy trong câu thơ của Tạ Linh Vận đời Tấn: "Trì đường sanh xuân thảo". Nguyên Tạ Linh Vận có người em học tên là Tạ Huệ Liên mới 10 tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường tán thán và nói rằng khi ngồi cùng Huệ Liên thì thế nào cũng nghĩ được thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi nơi bờ ao nghĩ thơ, nhưng không tìm ra tứ. Về nhà nằm ngủ chiêm bao thấy Huệ Liên, thức dậy làm được câu "Trì đường sanh xuân thảo", rất lấy làm đắc ý. Câu chuyện này truyền ra trở thành một giai thoại trong làng thơ.

(4) Đình mai: Dùng mai trong thơ, một là để tả xuân, hai là để ngụ ý ở nơi trạm để đợi sứ, mươn ý câu thơ Đường: "Chiết mai phùng dịch sứ". Nguyễn Du đến Lạng Sơn mùa Đông năm Quý Hợi (1804) và làm bài "Xuân tiêu" năm Giáp Tí (1805), nên mới nói là "Dĩ hoán nhất niên xuân".

(5) Trì sính: Trì là ngựa chạy mau. Sính cũng là ngựa chạy mau. Hai chữ ghép lại thành nghĩa là dong ruổi.

(6) Tiếu tần: "Tiếu" là cười. "Tần" là nhăn mày.

(7) Đoàn thành: Tên riêng của thành Lạng Sơn. Có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành hình vòng tròn.