<<< http://perso.wanadoo.fr/dang.tk/ >>>
<<< http://nguyendu.com.free.fr/ (mirror) >>>
Chú thích: (1) Lữ thứ: Tác giả làm bài này khi lên Lạng Sơn để đón sứ thần nhà Thanh năm Giáp Tí (1805). (2) Bồng mấn: Mái tóc rối bời như cỏ bồng. (3) Trì thảo: Chữ lấy trong câu thơ của Tạ Linh Vận đời Tấn: "Trì đường sanh xuân thảo". Nguyên Tạ Linh Vận có người em học tên là Tạ Huệ Liên mới 10 tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường tán thán và nói rằng khi ngồi cùng Huệ Liên thì thế nào cũng nghĩ được thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi nơi bờ ao nghĩ thơ, nhưng không tìm ra tứ. Về nhà nằm ngủ chiêm bao thấy Huệ Liên, thức dậy làm được câu "Trì đường sanh xuân thảo", rất lấy làm đắc ý. Câu chuyện này truyền ra trở thành một giai thoại trong làng thơ. (4) Đình mai: Dùng mai trong thơ, một là để tả xuân, hai là để ngụ ý ở nơi trạm để đợi sứ, mươn ý câu thơ Đường: "Chiết mai phùng dịch sứ". Nguyễn Du đến Lạng Sơn mùa Đông năm Quý Hợi (1804) và làm bài "Xuân tiêu" năm Giáp Tí (1805), nên mới nói là "Dĩ hoán nhất niên xuân". (5) Trì sính: Trì là ngựa chạy mau. Sính cũng là ngựa chạy mau. Hai chữ ghép lại thành nghĩa là dong ruổi. (6) Tiếu tần: "Tiếu" là cười. "Tần" là nhăn mày. (7) Đoàn thành: Tên riêng của thành Lạng Sơn. Có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành hình vòng tròn. |